(25)

Thiên Chúa đã dựng nên

con người là một chủ thể

hiểu biết và tự do

 

 

“T

hiên Chúa đã dựng nên con người theo hình ảnh mình, theo hình ảnh Thiên Chúa Ngài đã dựng nên họ; Ngài đã dựng nên họ có nam có nữ” (Gn.1:27). Người nam và người nữ được dựng nên đồng phẩm giá như những bản vị, như các đơn vị thành nên bởi tinh thần và xác thể. Họ khác biệt nhau theo cấu trúc tâm-thể lý của họ. Hữu thể con người mang dấu ấn nam tính hay nữ tính.

            Dù là một dấu hiệu đa dạng, hữu thể con người cũng nói lên tính chất bổ xung. Điều này có thể suy diễn từ bản văn “Giavê”, đoạn về con người khi nhìn thấy người nữ mới được dựng nên thì kêu lên: “Đây rồi, xương này là xương tôi và thịt này là thịt tôi” (Gn.2:23). Những lời này là những lời vui mừng và cũng là những lời ngây ngất của con người khi trông thấy một hữu thể thực sự giống như mình. Tính chất vừa đa diện vừa bổ xung tâm linh nơi con người là căn nguyên cho tình trạng phong phú đặc biệt của nhân tính, một tình trạng xứng hợp với giòng dõi Adong qua suốt giòng lịch sử của họ. Đời sống hôn nhân đã bắt nguồn từ đây, do Đấng Hóa Công thiết lập ngay từ ban đầu: “Bởi thế, người nam lìa bỏ cha mẹ mình mà gắn bó với vợ mình, và họ trở nên một xác thịt” (Gn.2:24).

            Đoạn Sách Khởi Nguyên này tương đương với  đoạn Sách Khởi Nguyên 1 câu 28 về phúc lành sản sinh: “Hãy sinh sôi nẩy nở cho đầy mặt đất mà chủ trị nó…”. Được hàm chứa trong mầu nhiệm tạo dựng con người, việc thiết lập đời sống hôn nhân và gia đình như được gắn liền với lệnh “hãy chủ trị” trái đất do Tạo Hóa trao phó cho cặp vợ chồng tiên khởi ấy.

            Con người được kêu gọi “chủ trị trái đất”. Thế nhưng, hãy chú ý cho kỹ, “hãy chủ trị” nó chứ không phải là tàn phá nó, vì tạo thành là một tặng ân của Thiên Chúa nên nó phải được tôn trọng. Con người là hình ảnh của Thiên Chúa không phải ở chỗ có nam có nữ, mà còn ở mối tương hệ của hai phái tính. Mối tương hệ này làm nên linh hồn của “mối hiệp thông các bản vị”, một mối hiệp thông được thiết lập thành đời sống hôn nhân và cho thấy một tương tự nào đó như mối hiệp nhất nơi ba Bản Vị Thần Linh.

            Về vấn đề này, Công Đồng Chung Vaticanô II đã nói với chúng ta rằng: “Thiên Chúa đã không dựng nên con người là một hữu thể lẻ loi. Từ ban đầu, ‘Ngài đã dựng nên họ có nam có nữ’ (Gn.1:27). Mối thân giao nam nữ này đã tạo nên thể thức hiệp thông đầu tiên giữa các bản vị. Vì, theo bản tính sâu xa của mình, con người là một hữu thể thuộc về xã hội, và trừ phi con người liên hệ mình với người khác, họ không thể nào sống động hay phát triển năng lực của mình” (Hiến Chế Gaudium et Spes, đoạn 12).

            Như thế, đối với con người, việc tạo dựng bao gồm cả mối liên hệ với thế giới, lẫn mối liên hệ với hữu thể nhân loại khác (mối liên hệ nam nữ) cũng như với các hữu thể giống họ. “Việc chủ trị trái đất” đã phác họa đặc tính “tương quan” của việc con người hiện hữu. Các chiều kích “với các hữu thể khác”, “nơi các hữu thể khác” và “cho các hữu thể khác” xứng hợp với bản vị con người như là “hình ảnh Thiên Chúa”. Những chiều kích này đã thiết lập vị trí của con người nơi các tạo sinh ngay từ ban đầu. Vì mục đích này, con người đã được hiện hữu hóa như là một chủ thể (như “cái tôi” cụ thể), có nhận thức minh trí và tự do.

            Khả năng hiểu biết về minh trí của con người hoàn toàn tách biệt họ khỏi toàn khối thú vật có khả năng nhận thức bị giới hạn nơi các cảm quan. Kiến thức của minh trí làm cho con  người có khả năng nhận định, khả năng phân biệt sự thật và sự giả. Kiến thức của minh trí thực hiện như thế bằng việc mở ra trước con người các ngành khoa học, các ngành về bình phẩm, các ngành về việc theo phương pháp để tìm kiếm chân lý của thực tại. Con người mang trong mình một mối liên hệ thực sự với sự thật, một mối liên hệ nói lên tính chất của họ như là một hữu thể siêu việt. Kiến thức về sự thật thấm nhập vào toàn thể lãnh vực liên hệ giữa con người với thế giới, cũng như với các hữu thể khác. Nó là một tiền đề không thể thiếu nơi mọi thể thức văn hóa.

            Được thắt buộc với sự thiện bằng mối liên hệ nội tại, niềm tự do của ý muốn con người cũng gắn liền với kiến thức của minh trí và liên hệ cả với sự thật. Các tác động của con người tự mình mang dấu hiệu tự quyết của ý muốn và của việc chọn lựa. Toàn bộ luân lý học bắt nguồn từ chỗ này. Con người có khả năng chọn lựa giữa thiện và ác, được hỗ trợ để làm việc này bằng tiếng lương tâm, một lương tâm thúc giục họ làm lành lánh dữ.

            Như kiến thức về sự thật, khả năng chọn lựa – tức là ý muốn tự do – hòa nhập toàn khối liên hệ giữa con người với thế giới, nhất là với các con người khác và còn đi xa hơn thế nữa.

            Nhờ bản chất linh thiêng và khả năng kiến thức về minh trí, cùng khả năng tự do chọn lựa và tác hành, con người, ngay từ ban đầu, có một liên hệ đặc biệt với Thiên Chúa. Trình thuật về việc tạo dựng (x.Gn.1-3) cho phép chúng ta nhận định rằng “hình ảnh Thiên Chúa” được tỏ hiện trên hết nơi mối liên hệ “cái tôi” của con người với “Qúi Vị” thần linh. Con người nhận biết Thiên Chúa, và tâm can cùng ý muốn của họ có khả năng hiệp nhất với Thiên Chúa (homo est capax Dei). Con người có thể thưa “vâng” với Thiên Chúa, song họ cũng có thể nói “không”. Họ có khả năng chấp nhận Thiên Chúa và ý muốn thánh hảo của Ngài, song cũng có khả năng chống lại.

            Tất cả những điều này hàm chứa nơi ý nghĩa là “hình ảnh Thiên Chúa” được Sách Huấn Ca cho chúng ta thấy: “Chúa đã dựng nên hữu thể con người từ bụi đất và trả họ về với đất bụi… Ngài đã mặc cho họ sức mạnh như của Ngài, và đã làm cho họ nên giống hình ảnh Ngài. Ngài đã khiến tất cả mọi sinh vật tôn sợ họ, và ban cho họ quyền thống trị trên hoang thú và chim chóc. Ngài dựng nên họ có miệng lưỡi và con mắt; Ngài cho họ có tai nghe và trí hiểu. Ngài làm cho họ đầy những kiến thức và hiểu biết, và tỏ cho họ sự lành sự dữ… Ngài để mắt trên con tim  họ (hãy chú ý đến việc diễn tả ở đây!) để tỏ cho họ thấy uy nghi cao cả của các việc Ngài làm… Ngài gợi lên cho họ kiến thức, một lề luật sống làm cơ nghiệp cho họ. Ngài đã thiết lập với họ một giáo ước vĩnh cửu, Ngài đã tỏ cho họ biết các giới lệnh của Ngài” (17:1,3-7,9-10). Những lời này chất chứa một kho tàng phong phú và sâu xa giúp chúng ta suy nghĩ.

            Công Đồng Chung Vaticanô II đã diễn đạt cùng một sự thật này về con người, bằng một ngôn ngữ vừa dài lâu vừa hiện đại. “Con người chỉ có thể hướng về sự thiện hảo trong tự do… phẩm vị của con người đòi họ tác hành theo ý thức và tự do chọn lựa…” (Hiến Chế Gaudium et Spes, đoạn 17). “Vì bởi những phẩm tính nội tại của mình, con người qua mặt toàn khối thuần sự vật. Họ lặn sâu vào thâm cung thực tại khi nào họ đi vào cõi lòng của mình; Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can, đợi chờ họ ở đó; ở đó, họ nhận ra được định mệnh xứng hợp của mình dưới con mắt Thiên Chúa” (đoạn 14 cùng nguồn). “Tư do chân chính là một dấu hiệu phi thường của hình ảnh thần linh trong con người” (đoạn 17 cùng nguồn). Tự do thực sự là tự do trong sự thực, được  in ấn nơi thực tại “hình ảnh thần linh” ngay từ ban đầu.

            Vì “hình ảnh” này, con người, một chủ thể hiểu biết và tự do, không phải chỉ được kêu gọi để biến đổi thế giới theo mức độ những nhu cầu chính đáng của họ. Họ không chỉ được kêu gọi đến mối hiệp thông các bản vị xứng hợp với thể chế hôn nhân (communio personarum) là khởi điểm của gia đình. Họ còn được kêu gọi thiết lập giao ước với Thiên Chúa nữa. Họ không phải chỉ là một tạo vật thuần túy của Hóa Công, mà còn là hình ảnh của Thiên Chúa. Họ là tạo vật như một hình ảnh Thiên Chúa, và họ cũng là hình ảnh Thiên Chúa như một tạo vật. Trình thuật về việc tạo dựng trong Sách Khởi Nguyên ở các đoạn từ 1 đến 3 có liên hệ với đoạn về việc thiết lập giao ước đầu tiên của Thiên Chúa với con người. Việc thiết lập giao ước này (cũng như việc tạo dựng) hoàn toàn là một sáng kiến tối hậu của Thiên Chúa Hóa Công. Nó sẽ mãi không thay đổi qua giòng lịch sử cứu độ, cho đến khi Thiên Chúa thiết lập giao ước cuối cùng và vĩnh cửu với nhân loại trong Chúa Giêsu Kitô.

            Con người là một chủ thể xứng hợp với việc thiết lập giao ước, vì họ đã được dựng nên “theo hình ảnh” của Thiên Chúa, có khả năng hiểu biết và tự do. Tư tưởng Kitô giáo đã nhận thấy “cái tương tự” Thiên Chúa nơi con người một căn nguyên cho ơn gọi của họ trong việc họ được tham dự vào sự sống nội tại của Thiên Chúa – việc họ vươn tới lãnh vực siêu nhiên.

            Như thế, sự thật mạc khải về con người được dựng nên “theo hình ảnh và tương tự như Thiên Chúa” chẳng những có tất cả những gì là “humanum” nơi họ, thiết yếu cho nhân tính của họ, mà còn có thể có cả cái là “divinum” nhưng không nữa. Tức là, nó cũng chất chứa những gì Thiên Chúa – Cha, Con và Thánh Thần – đã de facto tiên liệu trước cho con người theo chiều kích siêu nhiên nơi việc họ hiện hữu, những yếu tố mà nếu thiếu hụt, con người không thể nào đạt tới tầm mức trọn vẹn như Hóa Công ấn định cho họ.

           

(Bài Giáo Lý ngày 23 tháng 4 năm 1986)